Hỗ trợ khoa học kỹ thuật cho vùng dân tộc thiểu số giúp giảm nghèo nhanh

Thứ năm - 09/09/2021 09:13
Thái Nguyên hiện có 51 dân tộc sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) trên 384 nghìn người, chiếm khoảng 29,87% dân số toàn tỉnh. Trong 5 năm qua, thông qua các Chương trình, tỉnh Thái Nguyên đã huy động được trên 6.000 tỷ đồng để đầu tư cho vùng đồng bào DTTS và miền núi. Trong đó nổi bật là chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua việc cấp vốn, giống, phương tiện sản xuất và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhờ vậy, người dân vùng DTTS và miền núi có kế sinh nhai bền vững, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Hiện, nhiều hộ không chỉ thoát nghèo mà còn mạnh dạn tìm hướng phát triển sản xuất kinh doanh, thử nghiệm các mô hình cho hiệu quả kinh tế cao.
Cam khuổi mèo
Cây cam được trồng nhiều tại xóm Khuổi Mèo
Ông Nguyễn Thái Nam, Trưởng ban Dân tộc tỉnh Thái Nguyên cho biết, một trong những chương trình mang lại dấu ấn tích cực trong thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên phải kể đến “Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi” (còn gọi là Chương trình 135). Sau hơn 20 năm đồng hành với đồng bào dân tộc thiểu số, Chương trình 135 đã mang đến sự đổi thay tích cực cho các xã, xóm đặc biệt khó khăn của tỉnh. Chương trình có ảnh hưởng không những đến phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống đồng bào ở các vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa mà còn góp phần giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kết quả, số vốn thực hiện từ năm 2013 - 2020 là trên 783 tỷ đồng để hỗ trợ phát triển sản xuất, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật; đầu tư xây dựng trên 800 công trình giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, nước sinh hoạt...
Đề án 2037 là đề án đặc thù của tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc Mông sinh sống cũng đã đem lại hiệu quả cao. Toàn tỉnh có trên 1.520 hộ đồng bào dân tộc Mông với gần 8.000 người sinh sống tập trung chủ yếu tại 26 xóm bản đặc biệt khó khăn. Thực hiện Đề án "Phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất và đời sống các xóm bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc Mông sinh sống tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020" (Đề án 2037), trong 5 năm qua, tỉnh đã hỗ trợ phát triển sản xuất giống cây, phân bón trồng ngô lai cho diện tích 3.130,8 ha, vay vốn trên 7,3 tỷ đồng và hỗ trợ gần 1,2 tỷ đồng từ nguồn ngân sách tỉnh để đồng bào trồng cỏ chăn nuôi trâu, bò.
Ông Ngô Văn Tô, Bí thư Chi bộ xóm Khuổi Mèo, xã Sảng Mộc huyện Võ Nhai cho biết xóm đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá, các cây trồng chủ lực là ngô lai và cam sành, diện tích khá lớn. Nhiều hộ đầu tư nuôi bò thương phẩm có thu nhập cao. Nếu như chục năm đổ về trước, bà con thường xuyên thiếu đói đến 3 tháng mỗi năm, thì nay hoàn toàn không còn cảnh đói, các hộ đang nỗ lực thoát nghèo vươn lên làm giàu.
Xóm Khuổi Mèo hiện có 118 hộ, 550 khẩu toàn bộ là người Mông gốc gác tại các huyện giáp biên của tỉnh Cao Bằng, sau năm 1975 mới di cư đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Do đến sau, đất canh tác hầu hết đều đã có chủ nên xóm có rất ít đất canh tác, đều là đất dốc, bạc màu, canh tác theo phương pháp cũ năng suất rất thấp.
Kể từ năm 2015, theo Đề án 2037 của tỉnh, bà con trong xóm được cấp hạt giống ngô lai và phân bón. Ông Tô nói kể từ đó, bà con mới biết dùng phân bón cho cây trồng. Được hướng dẫn kỹ thuật, cách chăm sóc theo công nghệ kỹ thuật mới, chỉ 1-2 hạt/hốc, trồng thưa hơn trước đây, nên cây phát triển tốt, tỷ lệ đậu bắp rất sai, năng suất cao gấp nhiều lần. 
Không chỉ thay đổi tập quán sản xuất bằng việc trồng ngô lai cho năng suất cao, bước đầu hình thành vùng sản xuất ngô hàng hóa tập trung, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống, chính quyền xã Sảng Mộc cũng đã vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa cây lúa vào sản xuất. Ông Tô đánh giá cao giống lúa lai Ưu 838, cũng là giống lúa được nhà nước hỗ trợ, chất lượng gạo thơm ngon và năng suất cao. Mỗi vụ, nhà ông trồng 7kg giống, thu về trên 1,5 tấn thóc. Bà con được khuyến nông hướng dẫn khoa học kỹ thuật theo kiểu “cầm tay chỉ việc”, đến tận ruộng để làm mẫu các trồng cấy, cách bón phân, kiểm tra xử lý sâu bệnh. “Nếu không được tập huấn không làm được ăn đâu”, ông Tô khẳng định.
Đáng kể nhất, cũng là hướng đi chắc chắn và bền vững nhất trong phát triển sản xuất của xóm, là chăn nuôi trâu bò hàng hoá. Nhiều hộ dân được hỗ trợ mua trâu, bò theo Đề án 2037, được tập huấn kỹ thuật và trồng cỏ voi để thay đổi từ nuôi thả sang làm chuồng nuôi nhốt mang lại hiệu quả kinh tế cao. Như nhà Vương Văn Lầu, 35 tuổi, được cấp 1 con bò theo diện hộ nghèo. Nhờ chăm chỉ và áp dụng tốt kiến thức chăn nuôi, Lầu đã tăng đàn lên tới 5-6 con, xây cất được ngôi nhà rất trang trang nhờ tiền bán bò, kinh tế hiện khá hơn nhiều.
Những năm gần đây, bà con người Mông ở Khuổi Mèo đã bắt đầu “có lực” để đầu tư trồng rừng và cây ăn quả. Cả xóm hiện có khoảng hơn 10ha cam sành của 15 hộ, hộ ít thì 300 cây, hộ nhiều cả nghìn cây. Nhà nước cấp giống và tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật chăm sóc cây có múi. Bà con tự rủ nhau đến các vùng cam lớn tại Hàm Yên (Tuyên Quang) để học cách tỉa cành, tra phân. Một số vườn cam đã được cho thu hoạch, chất lượng rất thơm, ngọt do được chăm sóc theo hướng hữu cơ hoàn toàn không sử dụng hoá chất để trừ sâu bệnh.
Nhà Na Sàng
Những ngôi nhà khang trang đã mọc lên tại bản Mông Na Sàng (xã Phú Đô, Phú Lương)

Được Nhà nước hỗ trợ sản xuất qua hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật, các bản Mông đã dần làm chủ cách làm ăn hiện đại, nhiều hộ trở nên khá giả, giàu có nhờ trồng rừng và trồng chè. Xóm Na Sàng, xã Phú Đô, huyện Phú Lương vốn được biết đến là nơi vô cùng khó khăn do địa thế nằm ở những ngọn núi cheo leo, đường xá đi lại rất gian nan. Song, người dân đã phát huy lợi thế kinh tế rừng sản xuất để thoát nghèo, làm giàu. 
Người Mông ở Na Sàng cũng đã mạnh dạn đầu tư trồng chè cao sản giống mới như LDP1, TRI 777, giá bán chè búp khô trên dưới 200.000 đồng/kg, mang lại nguồn thu nhập khá cho bà con...
Ông Nguyễn Thái Nam cũng chia sẻ, trong giai đoạn 2016 - 2020, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có nhiều đổi mới, các chương trình, chính sách của Trung ương được lồng ghép với các chương trình, chính sách của địa phương có trọng tâm, trọng điểm. Kết thúc giai đoạn 2013 - 2020, tỉnh có 12 xã ra khỏi diện đặc biệt khó khăn. Trong đó, năm 2018 huyện Võ Nhai đủ điều kiện ra khỏi diện hưởng chính sách như huyện nghèo - huyện 30a. 
Năm 2019, Thái Nguyên trở thành tỉnh dẫn đầu toàn quốc về hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 với có 19/63 xã, 75/94 xóm đặc biệt khó khăn hoàn thành mục tiêu. Đến hết năm 2020, tỉnh có 77/112 xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi đạt chuẩn nông thôn mới, góp phần đưa tỷ lệ các xã đạt chuẩn nông thôn mới vùng dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh cao gấp ba lần bình quân chung của vùng dân tộc thiểu số và miền núi toàn quốc. Trong đó có 9 xã đặc biệt khó khăn đạt chuẩn Nông thôn mới.
Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo trong vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm nhanh, từ 19,22% năm 2016 xuống còn 6,17% vào cuối năm 2019, giảm bình quân trên 3,2%/năm. Công tác giảm nghèo đã góp phần quan trọng đưa Thái Nguyên tăng 3 bậc, xếp thứ 2 trong 11 tỉnh miền núi vùng Đông Bắc có tỷ lệ hộ nghèo thấp.
Hiện, Thái Nguyên tiếp tục nằm trong Đề án Tổng thể và Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 của Chính phủ. Đồng bào sẽ được hỗ trợ vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ các kiến thức khoa học kĩ thuật áp dụng vào sản xuất nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi xóm bản để đạt mục tiêu của Chương trình đặt ra đến năm 2025 giảm 50% số xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; đến năm 2030 cơ bản không còn xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.  

 
Ngọc Khuê

Tác giả bài viết: Ngọc Khuê


 

  Ý kiến bạn đọc

  Ẩn/Hiện ý kiến

Mã bảo mật   

Những tin mới hơn

 

Những tin cũ hơn

Cơ quan chủ quản